Mặc dù
xuất khẩu xi măng Việt Nam sang EU hiện chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 1 - 2% tổng kim ngạch xuất khẩu xi măng), nhưng CBAM là yếu tố tác động gián tiếp nhưng sâu rộng vì nó có thể tạo hiệu ứng dây chuyền lên các thị trường khác nếu họ cũng áp dụng chính sách tương tự trong tương lai.
Dự báo, đến năm 2030, chi phí CBAM cho mỗi tấn
xi măng Việt Nam có thể lên tới 25 - 30 EUR, tương đương 600.000 - 700.000 đồng/tấn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức cạnh tranh và lợi nhuận của DN.
Tổng chi phí CBAM cho
ngành Xi măng Việt Nam khi xuất khẩu vào EU có thể đạt từ 300 - 400 tỷ đồng/năm, trong trường hợp duy trì mức xuất khẩu như hiện nay.
Đại diện một
DN xi măng chia sẻ: “Chúng tôi đặt mục tiêu giảm ít nhất 15% lượng phát thải CO2 đến năm 2030. Đó không còn là lựa chọn, mà là con đường duy nhất để giữ được thị phần xuất khẩu. Tuy nhiên, cần phải có lộ trình giảm phát thải rõ ràng, chúng tôi không thể ký hợp đồng dài hạn với đối tác lớn. Mọi nhà nhập khẩu giờ đều đặt câu hỏi CO2/tấn sản phẩm là bao nhiêu?”.
Cùng với đó, nếu nhìn vào các
nhà máy xi măng hiện nay, không còn là hình ảnh công nhân đứng cạnh lò nung như trước. Thay vào đó, là hệ thống điều khiển giám sát và thu thập dữ liệu SCADA, DCS, mạng lưới vạn vật kết nối IoT được triển khai toàn diện.
Trước đây, các nhà sản xuất bê tông chỉ dựa vào hoạt động của con người để theo dõi thông tin có thể ảnh hưởng đến chất lượng của hỗn hợp bê tông như việc thêm nước vào hỗn hợp hay việc vận chuyển chậm trễ, thường không tránh khỏi những sai sót.
Ngày nay, với các hệ thống tiên tiến hơn như sử dụng các thiết bị thông minh, các nhà sản xuất đã nhận thấy được hiệu quả từ việc kiểm soát chất lượng được cải thiện.
Đáng chú ý, nhiều DN đã số hóa cả hệ thống bán hàng, tồn kho và vận chuyển. Các nền tảng thương mại điện tử B2B (như VICEM eXpress) cho phép đại lý, nhà phân phối đặt hàng trực tuyến, theo dõi giao hàng và thanh toán một cách minh bạch. Điều này không chỉ nâng cao trải nghiệm khách hàng, mà còn giảm tồn kho, tăng vòng quay vốn – điều tối quan trọng trong giai đoạn ngành vẫn dư cung.
Chuyên gia về vật liệu xây dựng, thạc sĩ Phạm Ngọc Trung cho biết, sự thay đổi trong cách tiếp cận xuất khẩu cũng đang diễn ra trong ngành xi măng, không chỉ là “đẩy hàng” mà phải “xây thương hiệu”.
Không chỉ cạnh tranh giá rẻ, DN phải cung cấp sản phẩm ổn định về chất lượng, rõ ràng về môi trường, một số công ty đã xây dựng bộ hồ sơ môi trường cho từng lô hàng, công bố lượng phát thải, loại nhiên liệu sử dụng – điều từng chỉ phổ biến ở châu Âu.
"Không phải DN nào cũng đủ tiềm lực để đầu tư hàng trăm tỷ đồng cho công nghệ mới. Tuy nhiên, những người đi trước đang chứng minh con đường “xanh hóa” có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững, nhất là trong xuất khẩu vốn vẫn là đầu ra chính của ngành" - ông Phạm Ngọc Trung cho hay.
BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ:
>> Ứng dụng công nghệ xanh cho nhà máy xi măng
>> Công nghệ giúp loại bỏ nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất xi măng
>> Công nghệ mới giúp tối ưu hóa sản xuất xi măng bền vững
>> Giải pháp tối ưu hóa quá trình sản xuất giảm phát thải CO2 của ngành xi măng
>> Saint-Gobain ra mắt tấm xi măng xanh sản xuất tại Việt Nam